Làm gì với mất thính lực một tai?

Các bệnh nhân bị mất thính lực một tai có thể có các vấn đề khác nhau. phần nhiều phụ thuộc vào chừng độ nghiêm trọng của mất thính lực (ngưỡng nghe và hiểu lời nói), tuổi khởi phát, tình trạng nghe của tai bên đối diện và các bệnh kèm theo...

phát khởi điếc thần kinh giác quan nặng đến sâu một bên tai ở người lớn với tai còn lại nghe thường ngày là một vấn đề nan giải đáng chú ý. Các vấn đề phổ quát nhất thường được bộc lộ trong nhóm người này bao gồm: khó hiểu lời nói trong tiếng ồn, khó định vị âm thanh, khó nhận thức âm thanh bên tai mất thính lực (ngay cả trong yên tĩnh) và ù tai.

Làm gì với mất thính lực một tai? Máy trợ thính

Những giải pháp

Hiện có một số lựa chọn để giải quyết điếc thần kinh giác quan nặng đến sâu một bên tai ở người lớn với tai còn lại nghe thường ngày. Một phương pháp là khuếch đại âm thanh dịch thuật đà nẵng truyền thống. Phương pháp này phụ thuộc vào chức năng thính giác còn lại và khả năng nghe đạt được của tai bị mất thính giác. Phương pháp thứ hai là chuyển âm thanh từ tai mất thính lực sang tai nghe thường ngày ở đối bên. Điều này có thể được thực hiện bằng cách sử dụng máy nghe CROS (contralateral routing of signal) hoặc qua dẫn truyền xương. Dẫn truyền xương có thể đạt được theo hai cách, hoặc sử dụng máy trợ thính công suất cao, hoặc dùng thiết bị cấy đường xương. Phương pháp thứ ba là sử dụng cấy ốc tai điện tử để nỗ lực khôi phục nghe bằng hai tai. Phương pháp chung cuộc là không làm gì cả. Vậy nên chọn phương pháp nào?

Gần đây, Kitterick và cộng sự (2016) thực hành một nghiên cứu xem xét lại một cách hệ thống và phân tách tổng hợp để xác định bản chất và chất lượng của chứng cứ về sử dụng các công cụ nghe ở người lớn bị điếc thần kinh giác quan nặng đến sâu một bên tai với tai còn lại nghe bình thường. Các tiêu chí để nghiên cứu được yêu cầu như sau:

- Tai tốt có ngưỡng nghe đơn âm trung bình ≤ 30 dBHL và các ngưỡng nghe của tai nghe kém > 70 dBHL.

- Điếc thần kinh giác quan.

- dùng 1 công cụ nghe.

- dùng 1 dụng cụ nghe và 1 thiết bị giả (placebo device) hoặc không can thiệp.

- Đo nhận biết lời và / hoặc các kết quả khác (ví dụ: định vị âm thanh).

- Thiết kế hạp với một đợt thử nghiệm có kiểm soát hoặc một nghiên cứu quan sát trong tương tai.

Chất lượng của các nghiên cứu được đánh giá dựa trên chừng độ bằng cớ, dùng tính ngẫu nhiên, mù đôi, sử dụng nhóm chứng, nhận dạng và kiểm soát những lẫn lộn… Tổng cộng 778 bài viết đã được xác định, trong đó chỉ có 30 bài viết bẩm có 27 nghiên cứu biệt lập hợp với tiêu chí. phần đông các nghiên cứu bao gồm các so sánh trước và sau trong đó bệnh nhân thực hiện vai trò kiểm soát của họ. tuốt nghiên cứu được đánh giá là có chất lượng thấp hoặc trung bình; chất lượng giảm liên can phổ quát nhất là thiếu năng lực phân tích để xác định cỡ mẫu, nhóm chứng không ăn nhập và thiếu kiểm soát các yếu tố gây nhiễu.

bằng chứng sau đó đã được trình diễn.# đối với nhận biết ngôn ngữ trong yên tĩnh, nhận biết ngôn ngữ trong tiếng ồn, sự lệch bên của âm thanh/định vị âm thanh, chất lượng cuộc sống và các biến chứng/ các biến cố bất lợi hệ trọng đến sức khỏe nghe. Trong mỗi kết quả này, đã có so sánh nghe bằng thiết bị chuyển âm thanh từ tai mất thính lực sang tai nghe thường ngày ở đối bên với không sử dụng thiết bị trợ thính, thiết bị dẫn truyền đường xương với thiết bị dẫn truyền đường khí, cấy ốc tai điện tử với không dùng gì và cấy ốc tai điện tử với nghe bằng thiết bị chuyển âm thanh từ tai mất thính lực sang tai nghe thường nhật ở đối bên.

Nhận biết lời trong tĩnh

Nhìn chung, không có chứng cớ cho thấy có sự khác biệt về hiệu suất nghe khi tiếng nói phát ra trực tiếp ở phía trước của bệnh nhân có sử dụng thiết bị tương trợ nghe hay không dùng. Một nghiên cứu cho thấy độ xác thực nhận biết lời bị tổn hại ở những người sử dụng thiết bị dẫn truyền đường khí. ngoại giả, nhìn chung không có chứng cứ cho thấy có sự khác biệt về lợi. giữa dùng thiết bị dẫn truyền âm thanh từ tai nghe kém sang tai nghe bình thường theo dẫn truyền đường xương so với dẫn truyền đường khí. Các nghiên cứu cấy ốc tai điện tử chỉ rà soát nhận biết lời trước và sau cấy tai được cấy; do đó, không có chứng cớ có lợi chứng minh đối với hiệu suất cải thiện nghe hai tai.

Một tình trạng chừng như bị thiếu trong các tài liệu là ngôn ngữ nhỏ đến tai mất thính lực trong tĩnh, hạp với trường hợp một người nào đó nói nhỏ bên tai mất thính lực.

Làm gì với mất thính lực một tai? Cấy ốc tai điện tử

Nhận biết lời trong ồn

Có lợi. khi tai bị mất thính lực có một tỉ lệ tín hiệu trên ồn (signal-to-noise ratio = SNR) thuận tiện hơn. Ngược lại, những trường hợp thiếu hụt nghe đã được bẩm khi tai nghe kém có tỉ lệ tín hiệu trên ồn ít tiện lợi. Khi tiếng ồn hai tai như nhau, bệnh nhân nghe âm thanh truyền từ tai mất thính lực sang tai nghe bình thường tốt hơn với thiết bị dẫn truyền đường xương so với thiết bị dẫn truyền đường khí. Một phụ thuộc tương tự vào tỉ lệ tín hiệu trên ồn đã được các nghiên cứu cấy ốc tai điện tử báo cáo. Nhìn chung, các bằng chứng cho thấy việc nghe tốt hay nghe kém tùy thuộc vào tỉ lệ tín hiệu trên ồn ở mỗi tai.

Định vị âm thanh

Nhìn chung không có chứng cứ về định vị âm thanh. Một số nghiên cứu mỏng không có ảnh hưởng, một số nói có cải thiện và những nghiên cứu khác nói định vị âm thanh kém.

Sức khỏe thính giác liên can đến chất lượng cuộc sống

Nhìn chung, các bằng cớ cho thấy ích lợi nhận được khi nghe tốt và sử dụng thiết bị truyền âm thanh từ tai mất thính lực sang tai nghe thường ngày làm giảm khó khăn nghe. Tuy nhiên, hiện bằng cớ hạn chế về chất lượng cuộc sống và sức khỏe thính giác khi cấy ốc tai điện tử cho trường hợp mất thính lực một tai. Ngoài ra, không có biểu đạt về việc kiểm soát các hiệu quả/giả dược.

Những ca cẩm phổ biến nhất của những người lớn khởi phát điếc thần kinh cảm quan nặng đến sâu một bên tai với tai còn lại nghe bình thường bao gồm khó khăn nghe lời nói trong tiếng ồn và định vị âm thanh. Nhìn chung, các bằng chứng cho thấy nghe tốt trong điều kiện tiếng ồn cụ thể và nghe kém trong các điều kiện tiếng ồn khác. ngoại giả, không có bằng chứng về định vị âm thanh. dù rằng bằng cớ còn hạn chế đối với các ca cẩm phổ biến, nhưng nói chung, bệnh nhân cho biết đã nhận được lợi ích. Điều này có thể đặc biệt trong các tình huống với tiếng ồn tối thiểu, và người nói ở bên tai bị nghe kém của họ.

Tuy nhiên, tình trạng này, hay điều kiện này, không được ít hay thảo luận trong các nghiên cứu. Ngoài ra, đã có một cuộc trao đổi nhỏ về sự mệt mỏi và nuốm lắng tai trong khi dùng thiết bị truyền âm thanh từ tai mất thính lực sang tai nghe thường nhật. Khi sử dụng thiết bị này, các bệnh nhân cần để ứng phó với âm thanh vào hai tai nhưng chỉ có một tai hoạt động. rốt cục, không có nghiên cứu nào trong số những nghiên cứu trên báo về bệnh nhân của họ chỉ cần đơn giản quay đầu để nghe.

TTƯT.BS.CKII. NGUYỄN THỊ BÍCH THỦY

( Theo http://www.audiology.org )

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

VĂN PHÒNG DỊCH THUẬT CÔNG CHỨNG TẠI HẠ LONG- QUẢNG NINH

TRUNG TÂM DỊCH THUẬT CÔNG CHỨNG TẠI QUẢNG NINH

Dịch thuật công chứng Quảng Bình